(DHQ)2PHAL (Hydroquinine 1,4-phthalazinediyl diether), (DHQ)2PYR (Hydroquinine 2,5-diphenyl-4,6-pyrimidinediyl diether) hoặc (DHQ)2AQN (Hydroquinine anthraquinone-1,4-diyl diether) là những ligand thông dụng trong phản ứng Sharpless dihydroxyl hóa phi đối xứng (Sharpless asymmetric dihydroxylation).
Ngày nay, tác chất dùng cho phản ứng Sharpless asymmetric dihydroxylation đã được thương mại hóa với tên thong dụng là ("AD-mix"). Hỗn hợp chứa K2OsO2(OH)4, K2CO3, K3Fe(CN)6 và ligand (DHQ)2-PHAL được gọi là hỗn hợp AD-mix-α. Dùng tác chất này sẽ cho sự dihydroxyl hóa xảy ra ở bên dưới mặt phẳng sp2 của mô hình. Nếu ligand là (DHQD)2-PHAL thì gọi là hỗn hợp AD-mix-β vì nó cho sự dihydroxyl hóa xảy ra ở bên trên mặt phảng sp2 của mô hình.
[/url]
Quay trở lại câu hỏi của Tigerchem:
“The two phases were separated, and the aqueous phase was extracted with ethyl acetate. The combined organic extracts were washed with 3 N HCl (to recover the ligand), water and brine, dried over anhydrous MgSO4,then concentrated to afford the crude product contaminated by regioisomer 3B, diol, and benzamide”
DHQ và DHQD là những Cinchona Alkaloids. Do ban đầu phản ứng sử dụng LiOH nên môi trường phản ứng là môi trường baz. Nên các ligand sẽ ở dạng trung hòa. Sau phản ứng khi trích ly bằng EtOAc, các ligand, sản phẩm và các chất hữu cơ sẽ nằm trong pha hữu cơ (organic layer). Khi rửa pha hữu cơ với acid 3N HCl, gốc alkaloid của ligand sẽ chuyển thành muối ammonium vì vậy ligand sẽ tan được trong pha nước vì vậy ligand được tách ra khỏi sản phẩm.
Sau khi tách bằng bình lóng, pha hữu cơ chứa sản phẩm thô sẽ được rửa với nước để loại vết acid, với nước muối để loại gần hết nước trong pha hữu cơ và cuối cùng làm khan với MgSO4, v.v.v tinh chế để thu được sản phẩm tinh khiết.
Pha nước (nằm dưới vì có tỷ trọng nặng hơn ester) khi này sẽ được trung hòa (pH ~ 7) hoặc baz hóa (pH 8-10) để chuyển muối của alkaloid về dạng alkaloid tự do. Em coi thử alkaloid cinchona cần pH khoảng bao nhiêu để ở dạng tự do hoàn toàn (hỏi thử bên HCTN hoặc đọc mấy tài liệu trích ly alkaloid bên HCTN, mình nghĩ chắc pH~12 là tất cả đều tủa). Khi này ligand sẽ kết tủa hoặc tạo dung dịch đục và có thể thu hồi bằng hai cách.
Cách 1: Có thể lọc bằng phễu Buchner để thu kết tủa, và rửa nhiều lần với nước cho sạch vết baz. Vì lượng ligand khá nhỏ nên cần dùng phễu Buchner có đường kính đáy chỉ khoảng 1cm. Loại phễu này lọc được lượng chất khoảng 10 mg đến 1 g. Cắt miếng giấy lọc bằng đầu ngón tay lót xuống đáy phễu, Nếu dùng phễu lớn, dính hết ligand trên miếng giấy lọc!
Cách 2: Hoặc có thể trích ligand bằng dung môi thích hợp như Et2O, EtOAc, CH2Cl2, CHCl3…rồi rửa nước, rửa với nước muối, làm khan, lọc loại bỏ chất làm khan và cô quay để thu hồi dung môi. Ligand sẽ nằm trong bình cầu cô quay. Nhớ cân bình trước khi cô quay để sau đó cân lại để xác địng lượng ligand thu hồi được.
Hy vọng giải thích đủ rõ cho Tigerchem làm TN.
Ghi chú: Do những đóng góp về tổng hợp phi đối xứng, GS. K. Barry Sharpless đã được đồng giải thường Nobel về hóa học năm 2001.
http://nobelprize.org/nobel_prizes/c...001/index.html
http://en.wikipedia.org/wiki/Sharple...ihydroxylation