Go Back   Diễn đàn Thế Giới Hoá Học > ..:: HÓA HỌC CHUYÊN NGÀNH -SPECIALIZED CHEMISTRY FORUM ::.. > KIẾN THỨC HOÁ HỮU CƠ - ORGANIC CHEMISTRY FORUM > HOÁ SINH & HOÁ DƯỢC - BIOCHEMISTRY & PHARMACEUTICAL CHEMISTRY

Notices

HOÁ SINH & HOÁ DƯỢC - BIOCHEMISTRY & PHARMACEUTICAL CHEMISTRY Đây là mảng rất thú vị và ứng dụng của hó hữu cơ, ai có kinh nghiệm thì chia sẽ nhé !

Cho Ðiểm Ðề Tài Này - Các loại Vitamin.


  Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Old 01-06-2006 Mã bài: 385   #1
lmqcuong1611
Thành viên ChemVN
 
lmqcuong1611's Avatar

 
Tham gia ngày: Jan 2006
Location: TPHCM
Tuổi: 38
Posts: 59
Thanks: 0
Thanked 21 Times in 7 Posts
Groans: 0
Groaned at 1 Time in 1 Post
Rep Power: 0 lmqcuong1611 is an unknown quantity at this point
Send a message via Yahoo to lmqcuong1611
Smile Vitamin

Sự khám phá vitamin

Từ thời cổ đại, những căn bệnh được biết nhờ những triệu chứng bệnh lý của các thủy thủ, tù nhân hay những người dân các thành phố bị vây hãm trong chiến tranh... Tất cả là do thức ăn thiếu vitamin

Các thức ăn dự trữ cho cuộc hành trình dài của những thủy thủ thiếu một chất quan trọng rất cần thiết cho cơ thể đã gây chứng scorbut. Từ thế kỷ thứ XVIII , James Lind, đã chứng minh rằng dùng nước cốt trái chanh hay cam sẽ ngừa căn bệnh đã tàn phá các thủy thủ mà ngày nay hầu như ai cũng biết là do thiếu vitamin C.

James Cooks (1728-1779), một trong các nhà hàng hải lớn nhất từ xưa đến nay, lần đầu qua biển Antarctique đã khám phá đảo Hawaï, đảo Nouvelles-Hébrides và đảo Pâques. Mặc dù ông không biết những khám phá của James Lind, nhưng ông đã cho thủy thủ ăn rau đậu và choucroute (một loại dưa chua làm bằng bắp cải) . Nhờ vậy mà họ không mắc chứng scorbut trong cuộc hành trình nhiều tháng. Tuy vậy nhưng đến mãi đầu thế kỷ thứ XIX, Hải quân hoàng gia Anh (Royal Navy) mới cho thủy thủ dùng nước chanh mỗi ngày trong lúc những tàu buôn Anh quốc thì mới bắt đầu từ năm 1844.

Lúc bấy giờ không những các thủy thủ bị bịnh thiếu chất mà những người nghèo không thay đổi món ăn cũng mắc phải. Vấn đề này trở nên nóng bỏng trong kỳ nạn đói năm 1870 tại Paris. Số trẻ con chết nhiều vì thiếu chất tươi nên người ta đòi hỏi các nhà bác học phải tìm ra nguyên nhân.

Jean Baptiste Dumas (1800-1884), nhà hóa học kiêm chính trị, đã chế ra một loại sữa nhân tạo. Ông pha trộn chất béo, albumin trong nước đường. Tuy không ngon nhưng về mặt dinh dưỡng sữa nhân tạo này có đủ glucid, lipid và protein. Nhưng chỉ đầy đủ về mặt năng lượng mà vẫn còn thiếu một chất cần thiết nào đó.

Như vậy là phải đợi một thế kỷ sau khi James Lind khám phá, thế giới khoa học mới bắt đầu để ý tới.

Christian Eijikman (1858-1930) từ năm 1888 đến năm 1896, làm bác sĩ khám tù nhân tại Java lúc bấy giờ dưới quyền nước Hòa Lan. Nhiều tù binh bị bệnh phù thũng (béribéri), một loại bệnh về hệ thần kinh dẫn tới bại liệt rồi chết. Eijkman nuôi gà bằng gạo đã xay trắng. Nhiều con gà bị bệnh viêm dây thần kinh (polynévrite), giống như bệnh béribéri. Khi trưởng ban nhà tù cấm ông lấy gạo của nhà tù cho gà ăn, ông mua lúa cho gà. Và thật bất ngờ, gà hết bịnh liệt. Ông khẳng định là bệnh béribéri của tù nhân giống như bệnh tê liệt thần kinh của gà. Và để trị bệnh, thay vì cho họ ăn gạo xay trắng, ông cho ăn gạo lứt (tức là còn lớp cám). Vậy là họ hết bệnh.

Năm 1905, giáo sư vệ sinh tại Utrecht , ông Cornelius Pekelharing (1848-1922), người Hòa Lan, đã nuôi một số chuột bằng một chế độ thực phẩm coi như đầy đủ glucid, lipid, protéin. Chúng chết sau vài tuần. Sau đó ông tiếp tục thí nghiệm bằng cách thêm vô một ít sữa vô thì lớp chuột lần này sống khoẻ mạnh. Ông cho rằng trong sữa ngoài giá trị năng lượng, còn chứa một chất cần thiết.

Năm 1915, Casimir Funk (1884-1967), nhà Sinh hóa Bồ Ðào Nha ở tại Hoa Kỳ đã cô lập từ 100 ký gạo lứt để được vài centigram một chất có thể chữa lành bệnh cho những con bồ câu được nuôi bằng gạo trắng. Ông đặt tên chất đó là Vitamine bởi vì trong chất đó có chứa chức amine. Ông cho rằng con men chứa chất này nhiều hơn cám. Ông cho rằng bệnh scorbut, phù thũng (pellagra) và bệnh còi xương (rachitisme) cũng vì thiếu những chất cùng kiểu như chất này. Nhưng sau một thời gian bồ câu lại bệnh trở lại (bởi vì trong thức ăn bồ câu còn thiếu những vitamin khác) nên lời tuyên bố của ông không được chấp nhận bởi cộng đồng khoa học. Họ nghĩ rằng căn bệnh của bồ câu là do nhiễm trùng mà ra.

Gowland Hopkins (1861-1947) có thể xem như là người thành lập ngành Sinh hóa Anh quốc thời bấy giờ (bởi vì ngành này người Ðức dẫn đầu). Ông làm tiếp công trình của Pekelharing: tìm các vitamin trong sữa. Ông không thể cô lập được vitamin, nhưng trong khi nghiên cứu, ông khám phá ra chất glutathion, một chất tham dự vào phản ứng oxy hóa khử y hệt như vitamin C (acide ascorbique). Ông chứng tỏ rằng có những acid amin cần được thức ăn mang lại vì cơ thể không tự tạo ra chúng được.

Ðiều quan trọng hơn nữa là ông đã chứng minh rằng hóa học cho sự sống (biochimie) không khác gì hóa học đại cương mặc dù ông chống đối chữ dùng "biochimie" vì ông cho rằng chữ này có sự sống. Ông không thành công hoàn toàn về nghiên cứu vitamin nhưng đã được lãnh giải Nobel cùng với Eijkman năm 1929

Một bác sĩ người Mỹ, Joseph Goldberger (1874-1929) muốn chứng minh rằng bệnh phù thũng pellagra là bệnh thiếu vitamin chớ không phải là bệnh nhiễm trùng: ông tự chích vô mình máu của bệnh nhân và ăn vảy da của họ. Ông không bị bệnh nhưng không thể biết được người bệnh thiếu vitamin gì. Ông mất năm 1929, trước khi hội đồng khoa học chứng minh rằng bệnh phù thũng thiếu vitamin PP (Nicotinamid).

Nicotinamid được cô lập năm 1867 nhưng người ta không biết công dụng của nó.

Phần lớn các vitamin khác được khám phá trong thời kỳ này.

Elmer Mc Collum (1879-1967), người Mỹ khám phá ra vitamin A năm 1913 và vitamin D năm 1922. Liền sau đó họ tổng hợp được vitamin A và D.

Hiện nay ta biết được 13 vitamin khác nhau. Trên phương diện hóa học, chúng không đồng nhất (hétérogène). Trên phương diện sinh lý, chức vụ chúng cũng không đồng nhất. Chúng chỉ là những cofacteur. Thì dụ vitamin thuộc nhóm B là những chất cần thiết giúp sự hoạt động các enzym...

Bài đọc thêm:
Nhà hóa sinh học Mỹ Casimir Funk (1884-1967) là người đầu tiên dùng thuật ngữ này. Năm 1912, ông đưa ra kết luận: Nhiều bệnh suy dinh dưỡng hình thành do sự thiếu vắng các yếu tố thức ăn phụ. Ông gọi nó là vitamine. Theo tiếng Latin, “vita” có nghĩa là “sự sống” và “amine” là thành phần hóa học cần thiết cho sự sống.

Ngay từ xa xưa, con người đã biết rằng ngoài những món ăn như thịt cá, cơ thể luôn cần các chất từ rau quả tươi. Sự thiếu hụt những chất này sẽ gây hại cho sức khỏe và dẫn đến bệnh tật, thể hiện rõ nhất ở những người đi biển lâu ngày. Tuy nhiên, lúc ấy chưa ai hiểu rõ tại sao.

Đến giữa thế kỷ 16, qua kinh nghiệm của nhiều đoàn thủy thủ, mọi chuyện mới dần dần được sáng tỏ. Tháng 5/1534, nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier dẫn một đoàn 110 thủy thủ rời cảng Saint Malo thuộc miền bắc nước Pháp, trên bờ biển Manche, để tìm đường đến châu Á. Trong nhật ký du hành có đoạn ghi: “Một số thủy thủ có các dấu hiệu như mệt mỏi, hai chân sưng phù, nướu (lợi) miệng loét hôi, niêm mạc và da bong từng mảng, răng rơi rụng dần...”.

Cũng thời gian đó, John Woodall, một người Anh từng phục vụ lâu ngày ở công ty tàu biển Ấn Độ đã ghi chép: “Nhiều thợ trên tàu bị bệnh nướu (lợi), răng chảy máu, phù chi, nổi mẩn và ngứa khắp người. Sau khi uống nước rau tươi và hoa quả thì khỏi bệnh”. Tuy nhiên, tất cả các kinh nghiệm này vẫn chỉ là những ghi nhận tản mạn, chưa được xác định trên cơ sở khoa học.

Giữa thế kỷ 18, bác sĩ James Lind thuộc hải quân Anh đã xác nhận, ở những thủy thủ đi biển lâu ngày luôn xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh do chế độ ăn thiếu rau quả tươi, đó là bệnh scorbut. Năm 1747, trong chuyến đi trên tàu Salisbury, ông đã tiến hành thử nghiệm và thu được kết quả: những thủy thủ ăn đầy đủ rau quả tươi không mắc bệnh, trong khi những người khác đều có dấu hiệu của bệnh scorbut. Năm 1753, James Lind đã viết một cuốn sách thông báo hiện tượng này nhưng mãi tới năm 1795 (nghĩa là 42 năm sau khi ông qua đời), các nhà khoa học mới chú ý đến nó và hải quân mới có những quy định về chế độ ăn rau quả tươi trên tàu biển.

Năm 1907, hai nhà khoa học Axel Holst và Theodor Frolich dự tính dùng chế độ ăn giảm thiểu để gây suy dinh dưỡng ở chuột lang; và ngẫu nhiên họ lại gây được bệnh scorbut trong thử nghiệm. Nhờ đó, giới y học mới hiểu thêm được quá trình hình thành dạng bệnh này.

Năm 1912, sau một thời gian dài nghiên cứu các bệnh như beri-beri, scorbut và nhiều bệnh suy dinh dưỡng khác, Casimir Funk mới phát hiện ra vitamin. Cũng chính ông là người sau này đã khẳng định vai trò của vitamin C trong việc phòng chống bệnh scorbut. Mãi đến năm 1920, Jack Drummond mới xác định “yếu tố phụ cần thiết cho sự sống” không phải là amine như Funk tưởng và đề nghị bỏ chữ “e” để tránh gây sự ngộ nhận về tính chất hóa học. Từ đó, thuật ngữ “vitamin” được chính thức sử dụng trong y văn.

Năm 1928, trong khi nghiên cứu hiện tượng oxy hóa tế bào, Szent Giorgyi, nhà sinh hóa Mỹ, đã phân lập được từ tuyến thượng thận một chất và đặt tên là hexuronic acid, thực ra là vitamin C hòa tan trong nước. Nhờ phát hiện này, ông được tặng giải Nobel Y học. Năm 1932, W.A. Waugh và Charles King phân lập được vitamin C từ chanh và xác nhận có tính chất giống hệt hexuronic acid. Năm 1933, vitamin C được gọi với tên ascorbic acid và tới năm sau thì được tổng hợp nhờ công trình nghiên cứu của nhà hóa học người Anh Walter Haworth). Như vậy, vitamin C đã được biết đến sớm nhất.



Sự phát hiện vitamin B


Khoảng giữa thế kỷ 18, Jacob de Bondt, một thầy thuốc làm việc tại Batavia ở miền đông Ấn Độ thuộc Hà Lan đã viết cuốn sách “Y học Ấn Độ”, trong đó mô tả một căn bệnh phổ biến ở dân cư vùng này. Người ốm mất trương lực bàn tay, cánh tay, cơ chi dưới suy yếu kèm viêm dây thần kinh ngoại vi. Nhưng mãi đến năm 1642 (nghĩa là sau khi Bondt qua đời 11 năm), gia đình mới phát hiện và cho xuất bản cuốn sách.



Sau đó, nhiều thầy thuốc ở vùng Viễn Đông cũng thông báo một số trường hợp có triệu chứng tương tự và gọi tên là bệnh beri beri (tiếng Sri Lanka là mỏi mệt, suy nhược). Năm 1881, Erwin Von Balcz xác nhận, dạng bệnh suy nhược cơ chi khá phổ biến ở nhiều vùng dân cư Nhật. Trong suốt 4 năm (1882-1885), Kanehiro Takaki, Tổng Giám đốc Y khoa Hải quân Nhật đã loại trừ dạng bệnh này trong thủy quân nhờ áp dụng chế độ ăn gạo cám, hoa quả tươi.



Năm 1890, Christian Eijkman, thầy thuốc ngoại khoa và vệ sinh học người Hà Lan, làm việc tại một trại giam ở Java, nhận xét thấy phần lớn các tù nhân đều có dấu hiệu bệnh beri beri: suy nhược cơ, tê phù, liệt chân. Qua theo dõi một thời gian dài, ông nhận ra nguyên nhân là tù nhân ăn loại gạo xay xát quá kỹ. Ông dùng loại gạo đó nuôi dưỡng đàn gà của trại giam và lần đầu tiên gây được bệnh beri beri thực nghiệm. Sau đó, ông quyết định cho cả tù nhân lẫn đàn gà dùng chế độ ăn gạo chứa nhiều cám thì thấy hết hẳn các dấu hiệu bệnh.

Năm 1906, nhà hóa sinh học người Anh Gowland Hopkins đã tiến hành những thử nghiệm các chế độ ăn khác nhau trên súc vật. Sau 6 năm nghiên cứu, ông kết luận: Nhiều thể bệnh (như scorbut, beri beri...) xuất hiện do chế độ ăn thiếu hụt một chất rất cần thiết cho sự phát triển cơ thể sinh vật (dù nhu cầu về chúng rất nhỏ) Năm 1911, sau khi gây bệnh beri beri thực nghiệm ở chim câu, Funk đã dùng 20 mg chất phân lập từ bột cám và điều trị khỏi bệnh này, từ đấy mở đường cho việc tìm hiểu đầy đủ về vitamin B.

Năm 1929, giải Nobel Y học được trao tặng cho hai nhà khoa học Eijkman và Hopkins để ghi nhận công lao phát hiện vai trò của vitamin B.

Như vậy, từ giữa thế kỷ 16, con người đã bắt đầu ghi chép để nhận biết về sự hiện diện của những chất (không phải thực phẩm) cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Đã hơn 4 thế kỷ trôi qua và ngành khoa học nghiên cứu các chất cần thiết này đã được hình thành với tên gọi “vitamin học” (vitaminology). Ngành này đã xác định được khoảng 20 loại vitamin cùng với cấu trúc và vai trò của chúng.



(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)



Adenine (Vitamin B-4) - Purine that is definitely not a vitamin.

Amygdalin (Vitamin B-17, Laetrile) - Anticancer agent and vitamin--not!

Anthranilic Acid (Vitamin L) - A factor originally thought to be important for lactation.

Ascorbic Acid (Vitamin C) - One of the most ubiquitous vitamins ever discovered.

Beta-Carotene (Vitamin A precursor) - Yellow pigment that forms vitamin A.

Biotin (Vitamin H) - Carbon dioxide carrier that builds fats.

Cholecalciferol (Vitamin D) - The vitamin made from rich sunlight.

Cyanocobalamin (Vitamin B-12) - A vitamin that treats pernicious anemia.

Folic Acid (Folate, Vitamin B-9) - A vitamin that helps fetus development during pregnancy.

Inositol (Myo-Inositol) - A useful sugar once thought to be a!vitamin.

Menadione (Vitamin K) - A fat-soluble vitamin that helps to clot blood.

Niacin (Nicotinamide, Vitamin B-3) - A pyridine important in nucleic acid metabolism.

PABA (Para-aminobenzoic acid, Vitamin B-x) - Bacterial vitamin that serves as a sunscreen.

Pangamic Acid (Vitamin B15) - The non-vitamin "vitamin" that cures everything.

Pantothenic Acid (Pantothenate, Vitamin B-5) - Important for normal growth.

Pyridoxine (Pyridoxal phosphate, Vitamin B-6) - A very versatile coenzyme.

Retinol (Vitamin A) - The first vitamin to be discovered.

Riboflavin (Vitamin B-2) - The vitamin that gives urine its yellow color.

Thiamine (Vitamin B-1) - A sure cure for Beriberi.
lmqcuong1611 vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 10-26-2006 Mã bài: 5027   #2
sutrovecuanguoisin
Thành viên ChemVN

 
Tham gia ngày: Sep 2006
Tuổi: 38
Posts: 46
Thanks: 0
Thanked 1 Time in 1 Post
Groans: 0
Groaned at 0 Times in 0 Posts
Rep Power: 0 sutrovecuanguoisin is an unknown quantity at this point
Default Vitamin B12

Vitamin B12
Tác giả : BS. NGUYỄN THỊ NGỌC HƯƠNG

Vitamin B12 là những hợp chất hữu cơ có nguyên tử cobalt ở trung tâm, với tên gọi là những cobalamin và có hoạt tính sinh học trên cơ thể người.
Thông dụng, vitamin B12 dùng đơn thuần có thể đồng nghĩa với cyanocobalamin, dạng dược chất thường dùng nhất trên thực tế của vitamin B12. Vitamin B12 tham gia phản ứng tổng hợp thymidylate, một thành phần trong phân tử ADN, cung cấp nguyên liệu để tổng hợp ADN, góp phần vào quá trình phân chia tế bào và trưởng thành tế bào trong cơ thể. Một số điều cần biết về vitamin B12 Thiếu vitamin B12 cho thấy ảnh hưởng rõ rệt lên những dòng tế bào có sự phân bào nhiều như các tế bào máu, tế bào biểu mô (nhất là ở niêm mạc đường tiêu hóa). - Thiếu vitamin B12 gây suy thoái chất myelin, một chất béo và là thành phần quan trọng của tế bào thần kinh, gây ra những triệu chứng thần kinh. - Vitamin B12 do vi khuẩn tổng hợp từ thiên nhiên, sau đó mới đi vào chu trình thức ăn của các động vật, chủ yếu từ các động vật ăn cỏ. Ðộng vật và thực vật không tự tổng hợp được vitamin B12. - Trong thực phẩm của chúng ta, vitamin B12 có trong thức ăn nguồn gốc động vật như thịt (nhất là nội tạng, đặc biệt là gan), trứng, sữa. Các thức ăn thực vật như rau, trái nếu không "dính" vi khuẩn thì không có vitamin B12. - Vitamin B12 trong thức ăn đều ở dạng phức hợp với protein. Trong chế biến, vitamin B12 khá bền vững với nhiệt độ, trừ khi trong môi trường kiềm và nhiệt độ quá 1000C. Thịt luộc ở 1700C trong 45 phút mất 30% B12. Sữa nấu sôi 2-5 phút mất 30% B12. Khi có sự hiện diện của vitamin C, B12 trở nên ít bền vững với nhiệt độ hơn và có thể bị phá hủy những lượng đáng kể vì 0,5g vitamin C. - Sự hấp thu vitamin B12 cần có yếu tố nội tại (một protein do tế bào thành của niêm mạc dạ dày tiết ra) và enzyme phân hủy protein của tụy. Vitamin B12 được hấp thu bởi đoạn cuối ruột non. - Dự trữ vitamin B12 trong cơ thể chủ yếu nằm ở gan. Ở người bình thường, tổng số vitamin B12 dự trữ khoảng 1-10mg. Trong khi đó nhu cầu tối thiểu hàng ngày của B12 chỉ bằng 0,1mcg. Do đó khi cơ thể không được cung cấp vitamin B12 trong thời gian dài (khoảng 5 năm trở lên) lượng B12 trong cơ thể mới cạn kiệt và tình trạng thiếu vitamin B12 mới xảy ra. Nhu cầu hàng ngày Nhu cầu hàng ngày theo RDA 1989 (Mỹ) là 2mcg cho vị thành niên và người trưởng thành. FAO/WHO 1987 khuyến nghị 1mcg/ngày cho người trưởng thành bình thường. Phụ nữ có thai và cho con bú, nhu cầu B12 tăng, nói chung tăng 20-40% so với khi không có thai. Những thực phẩm giàu vitamin B12 Những thực phẩm rất giàu vitamin B12 (>10mcg/100g trọng lượng ướt) là nội tạng (gan, thận, tim) cừu, bò và sò ốc. Thực phẩm có nhiều vitamin B12 (3-10 mcg/100g trọng lượng ướt) là sữa bột không béo, một số hải sản (cua, cá hồi, cá sardine) và lòng đỏ trứng. Những thực phẩm có vitamin B12 lượng vừa là các sản phẩm sữa lỏng, kem, bơ. Nguồn vitamin chính trong khẩu phần là thịt động vật (đặc biệt là gan), trứng và các thức ăn từ sữa. Thiếu vitamin B12 Trong thực tế, thiếu vitamin B12 rất hiếm gặp. Hầu hết thiếu vitamin B12 ở người là do kém hấp thu B12, do thiếu yếu tố nội tại hay giảm hoặc mất chức năng hấp thu đặc hiệu của đoạn cuối ruột non. Những người dễ bị thiếu vitamin B12 gồm: - Những người ăn chay trường, hoàn toàn không ăn thịt cá, trứng, sữa trong nhiều năm. - Người có bệnh ở dạ dày, đặc biệt là bị viêm teo niêm mạc dạ dày. - Người đã cắt bỏ một phần hay toàn bộ dạ dày. - Người có bệnh ở ruột non, phần ruột bệnh bao gồm cả phần cuối ruột non như bệnh Celiac, bệnh Sprue, bệnh viêm ruột vùng, đã cắt đoạn ruột hoặc nối tắt ruột. - Người uống viatmin C nhiều. Biểu hiện thiếu vitamin B12: Thiếu vitamin B12 gây thiếu máu, các triệu chứng thần kinh và những triệu chứng khác. Thiếu máu do thiếu vitamin B12 là thiếu máu nguyên bào khổng lồ. Loại thiếu máu này có những đặc trưng về hình thể tế bào máu thấy trên xét nghiệm. Trên thực tế, hầu hết các trường hợp thiếu máu nguyên bào khổng lồ là do thiếu vitamin B12 hoặc acid folic. Người bệnh xanh xao, yếu, dễ mệt, ăn mất ngon, hồi hộp đánh trống ngực, đau đầu, khó thở, ngất xỉu. Các biểu hiện về thần kinh thể hiện đối xứng trên cơ thể và kéo dài nhiều tháng, gồm: - Dị cảm, tức có những cảm giác tê rần, nhột nhạt như kiến bò. - Giảm cảm nhận về cảm giác rung. - Giảm cảm giác vị thế đưa đến chứng thất điều, đi đứng xiêu vẹo. - Khả năng trí óc giảm sút. Thậm chí có thể hoang tưởng. Những triệu chứng khác: - Lở lưỡi, đau lưỡi. - Táo bón. - Hạ huyết áp thế đứng. Khi được điều trị, các triệu chứng thần kinh cải thiện chậm nhất. Những thói quen không tốt trong thực tế liên quan đến vitamin B12 - Lạm dụng vitamin B12. Nhiều người, thậm chí cả những người trong ngành y và dược thích chích B12 vì cho rằng đó là thuốc bổ máu, nhất là những khi thấy người mệt mỏi, da dẻ không được hồng hào. Có lẽ màu đỏ của thuốc cũng ảnh hưởng một phần, làm người ta tin tưởng ở tính chất "bổ máu" của nó. Tuy nhiên, như đã trình bày, hầu như tất cả các trường hợp này đều không thiếu vitamin B12. Cho đến nay, chắc chắn việc dùng vitamin B12 cho những người như vậy sẽ không đem lại bất kỳ lợi ích nào. Trái lại, chỉ tạo thêm nguy cơ bị phản ứng bất lợi do thuốc và tốn kém vì nhiều loại thuốc chứa vitamin B12 có giá khá cao. - Lạm dụng vitamin C. Nhu cầu vitamin C hàng ngày chỉ vào khoảng 70mg. Cũng như những dưỡng chất khác, dùng dư thừa vitamin C không có lợi; mà như đã nói còn có thể gây hại vì làm tăng nguy cơ thiếu vitamin B12 nếu dùng lượng nhiều và kéo dài. Như vậy việc dùng thuốc, dẫu là thuốc bổ, tốt nhất đều phải theo đúng chỉ định của bác sĩ. Chú thích ảnh: Cho dù là thuốc bổ cũng không nên lạm dụng Vitamin B12.
sutrovecuanguoisin vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 10-30-2006 Mã bài: 5206   #3
lmqcuong1611
Thành viên ChemVN
 
lmqcuong1611's Avatar

 
Tham gia ngày: Jan 2006
Location: TPHCM
Tuổi: 38
Posts: 59
Thanks: 0
Thanked 21 Times in 7 Posts
Groans: 0
Groaned at 1 Time in 1 Post
Rep Power: 0 lmqcuong1611 is an unknown quantity at this point
Send a message via Yahoo to lmqcuong1611
Default

Vitamin là những chất dinh dưỡng cần thiết cần được cung cấp hàng ngày để cơ thể phát triển và hoạt động bình thường. Tuy lượng cung cấp nhỏ, thậm chí rất nhỏ nhưng số vitamin cần thiết có đến 13, gồm 4 vitamin tan trong dầu là A, D, E, K và 9 vitamin tan trong nước như vitamin C, các vitamin nhóm B (B1, B2, B5, B6, PP…).
Do cơ thể không tự tổng hợp được vitamin (ngoại trừ phơi nắng thích hợp, ta có thể biến tiền vitamin D ở da thành vitamin D) nên phải ăn uống đầy đủ và cân bằng dưỡng chất để được cung cấp đủ vitamin. Nếu được cung cấp qua thức ăn, thức uống, ta không sợ thừa vitamin.

Nhưng nếu dùng thuốc bổ sung vì trường hợp bổ sung quá nhiều vitamin, đặc biệt bổ sung quá liều khuyến cáo hàng ngày (như vitamin C hàng ngày chỉ cần bổ sung 60mg) cho người không thiếu vitamin, có thể gây tình trạng thừa vitamin nhiều khi gây nguy hiểm không kém tình trạng thiếu vitamin. Sau đây là một số bệnh lý có thể gọi là ngộ độc, do thừa vitamin.

Thừa vitamin A: Do vitamin A tan trong dầu dễ tích lũy lại trong cơ quan có mỡ (như gan) đưa đến quá liều gây ngộ độc. Ở trẻ em, thừa vitamin A gây tăng áp lực nội sọ, gây lồi thóp ở trẻ sơ sinh, gây viêm teo dây thần kinh thị giác. Đối với phụ nữ có thể gây quái thai, đặc biệt dùng quá liều trong 3 tháng đầu thai kỳ.

Thừa vitamin D: Ở trẻ em gây chán ăn, mệt mỏi, nôn ói, xương hóa sụn sớm. Người lớn dùng quá liều lâu ngày cũng bị chán ăn, nôn ói, tiêu chảy. Phụ nữ có thai dùng quá thừa vitamin D sẽ bị vôi hóa nhau thai. Nói chung theo một số nhà khoa học, thừa vitamin không còn tạo xương mà là tiêu xương (do tăng canxi máu).

Thừa vitamin K: Thường gặp khi tiêm vitamin K kéo dài có thể gây tán huyết, vàng da.
Thừa vitamin E: Quá thừa đưa đến rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, rối loạn thị giác.

Thừa vitamin B6: Có thể dẫn đến viêm đa dây thần kinh, giảm trí nhớ, giảm tiết prolactin.

Thừa vitamin B12: Thường do tiêm liều cao gây hoạt hóa hệ đông máu có thể là tăng sự đông máu tắc mạch.

Thừa vitamin C: Do không có hiện tượng tích lũy gây thừa vitamin C trong cơ thể, nhưng nếu dùng liều cao dài ngày (quá 1g/ngày) sẽ bị viêm loét dạ dày, tiêu chảy, sỏi thận (sỏi oxalat). Nếu dùng đường tiêm liều cao có thể gây tán huyết, làm giảm thời gian đông máu.

Riêng đối với người cao tuổi, các cơ quan thải trừ thuốc hoạt động kém, dễ đưa đến tích lũy thuốc trong cơ thể, đặc biệt đưa đến thừa vitamin.
Cách bổ sung vitamin tốt nhất là qua thức ăn, thức uống. Nếu sợ thiếu vitamin và cả chất khoáng, có thể dùng thuốc bổ sung nhưng nên dùng đúng liều. Cần lưu ý thận trọng với dạng thuốc sủi bọt bổ sung vitamin. Do dạng thuốc sủi bọt luôn chứa tá dược rã sinh khí là Natri bicarbonat và Natri carbonat (khi hòa vào nước sẽ phản ứng với acid citric cũng là tá dược phóng thích khí CO2 gây sủi bọt).

Vì vậy, trong thuốc sủi bọt luôn chứa natri (mỗi viên thuốc sủi bọt có chứa từ 274 đến 460mg natri), có thể gây tăng huyết áp đối với người bị sẵn bệnh lý này và đang kiêng muối. Người cao tuổi đang điều trị bệnh tăng huyết áp tuyệt đối không dùng thuốc bổ sung vitamin dạng sủi bọt.
lmqcuong1611 vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 11-07-2006 Mã bài: 5593   #4
sutrovecuanguoisin
Thành viên ChemVN

 
Tham gia ngày: Sep 2006
Tuổi: 38
Posts: 46
Thanks: 0
Thanked 1 Time in 1 Post
Groans: 0
Groaned at 0 Times in 0 Posts
Rep Power: 0 sutrovecuanguoisin is an unknown quantity at this point
Default MỘT SỐ VITAMIN KHÔNG PHẢI LÀ VITAMIN

MỘT SỐ VITAMIN KHÔNG PHẢI LÀ VITAMIN

a số chúng ta đều biết đến các vitamin như B1, B2, B3 (PP), B5, B6, B8, B9, B12. Nhưng tại sao lại không hề nghe nói đến vitamin B4, B10, B11, B13, B15, B17…? Bởi vì ngày nay, người ta đã xác định một số chất không hoạt động hoặc không có tác dụng theo đúng định nghĩa của vitamin: đó là những vitamin nhưng lại không phải là vitamin.

Năm 1910, nhà bác học người Mỹ gốc Ba Lan Casimir Funk đã có một khám phá mang tính lịch sử là phân lập được một chất bí ẩn từ gạo ăn, nếu thiếu nó, cơ thể sẽ mắc một căn bệnh đáng sợ và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng: Đó là bệnh Béribéri - bệnh phù thũng. Ông đặt tên cho chất bí ẩn này là vitamin, một chất hóa học thuộc nhóm amin, rất cần cho sự sống. Để ghi nhớ sự kiện này, người ta đặt tên chất này là vitamin B1. Từ đó, tất cả các chất tương tự đều mang họ B1, như B2, B3...

Vitamin là những hợp chất hữu cơ mà cơ thể không tự tổng hợp được, phần lớn phải bổ sung bằng đường ăn uống. Với liều lượng rất nhỏ, nhưng vitamin đóng vai trò quan trọng đối với sự sống của con người: đó là những chất xúc tác không thể thiếu cho sự chuyển hóa các chất trong cơ thể. Nhu cầu hàng ngày về vitamin cho cơ thể con người rất ít, nhưng nếu thiếu sẽ gây những rối loạn trầm trọng và là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm, nếu kéo dài có thể dẫn đến tử vong.

Thời gian đã qua đi và hiện nay, một số vitamin không phải là vitamin nữa, đó là:

Vitamin B4: Người ta gọi vitamin B4 là “vitamin của bạch cầu” vì nó kích thích quá trình tạo bạch cầu. Trong thực nghiệm, nếu thiếu vitamin B4 sẽ gây hội chứng viêm đa dây thần kinh. Thực ra, đó là chất adenine, một chất tạo nên nhân của tế bào.

Vitamin B10: Có tác dụng bảo vệ cơ thể tránh những tác hại của ánh sáng mặt trời và các gốc tự do - là những chất độc hại cho cơ thể. Người ta tìm thấy vitamin B10 trong cùng một nguồn của tất cả các vitamin nhóm B như trong men bia, ngũ cốc toàn phần, mầm lúa mì, rau... Thực ra, đó là chất PABA, có cấu trúc hóa học rất giống với sulfamid - một acid amin tự nhiên trong não.

Vitamin B11: Được gọi là “vitamin của sự ngon miệng”, có tác dụng kích thích sự bài tiết của dạ dày và tụy tạng, giúp tiêu hóa tốt. Trên thực nghiệm, thiếu vitamin B11 sẽ dẫn đến chán ăn, kém tiêu hóa và teo cơ. Người ta tìm thấy vitamin B11 trong thịt và men bia. Thực ra, đó là một loại men tiêu hóa, cơ chế hoạt động không hề giống vitamin.

Vitamin B13: Có nhiều trong sữa, khi vào cơ thể sẽ được chuyển hóa thành chất đạm cơ bản để cấu tạo nên gien. Vitamin B13 còn được sử dụng để tổng hợp các loại muối khoáng khác nhau. Ở Pháp, vitamin B13 được xếp vào bảng thuốc độc. Thực ra, đó là acid orotic - một yếu tố tăng trưởng.

Vitamin B15: Có khả năng làm tăng độ dẻo dai ở vận động viên, cải thiện một số bệnh lý về hô hấp, khớp, thần kinh... Thực ra, đó là acid pangamic. Acid pangamic còn là tên dùng chung cho nhiều chất mang tính kích thích (doping) mà ngày nay người ta không cho phép sử dụng nữa.

Vitamin B17: Người ta tìm thấy vitamin B17 trong nhân quả đào, mơ, sê-ri. Ở Mêhicô, người dân thường ăn nhiều quả mơ và ít bị ung thư đường tiêu hóa nên người ta cho rằng vitamin B17 có tác dụng chống ung thư. Nhưng những thực nghiệm sau này không cho thấy tác dụng nào của vitamin B17. Vitamin B17 chính là leatrile, trong hàm lượng của nó có chứa thủy ngân nên các nước như Mỹ, Pháp đã cấm sử dụng.

Vitamin F: Người ta tìm thấy vitamin F trong dầu hướng dương, dầu ngô, dầu hạt nho, dầu đậu nành, dầu hồ đào. Thực nghiệm trên chuột cho thấy thiếu vitamin F, chuột chậm phát triển, đỏ da, tổn thương thận, vô sinh, và những bệnh này được chữa khỏi bằng vitamin F. Thực ra, đó là hai acid béo không no: acid linoléic và acid alpha linoléic.

Vitamin I: Vitamin I có nhiều trong quả hạnh đào, đậu xanh. Trước kia, vitamin I được kê đơn chữa các bệnh về gan, xơ vữa động mạch, viêm da. Ngày nay, người ta không tìm thấy bằng chứng xác thực về hiệu quả của vitamin I. Thực ra, vitamin I là inositol, có tác dụng tạo chất phospholipid, là thành phần cơ bản của màng tế bào và tế bào thần kinh.

Vitamin J: Có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa mỡ, do đó có tác dụng chống lại bệnh xơ vữa động mạch. Người ta còn sử dụng vitamin J để cải thiện chất lượng của trí nhớ vì nó tham gia vào quá trình thông tin thần kinh. Nó còn là tiền chất của chất dẫn truyền trung gian thần kinh quan trọng nhất của cơ thể: chất acetylcholin. Vitamin J thực ra là chất cholin, được tổng hợp ngay trong cơ thể con người từ amine methionin. Ngoài ra, cholin có trong nhiều thực phẩm chứa mỡ như lòng đỏ trứng, gan, đậu nành, mầm lúa mì...

Vitamin P: Người ta đặt tên vitamin P cho một nhóm sắc tố tan trong nước, thường đi kèm với vitamin C, có trong một số loại rau quả. Chất được biết đến nhiều nhất là rutin, chất này có khả năng đồng hóa vitamin C, tham gia vào chức năng bảo vệ sự vững bền của thành mạch máu. Thực ra, vitamin P là flavonoid, một tố chất giữ vai trò quan trọng trong việc chống lại các gốc tự do độc hại trong cơ thể con người. Flavonoid có nhiều trong trà xanh, rượu vang đỏ, một số loại rau quả, có nhiều ích lợi cho sức khỏe, nhất là tác dụng chống lão hóa, giải độc cho cơ thể.
sutrovecuanguoisin vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 11-13-2006 Mã bài: 5825   #5
sutrovecuanguoisin
Thành viên ChemVN

 
Tham gia ngày: Sep 2006
Tuổi: 38
Posts: 46
Thanks: 0
Thanked 1 Time in 1 Post
Groans: 0
Groaned at 0 Times in 0 Posts
Rep Power: 0 sutrovecuanguoisin is an unknown quantity at this point
Default

các bạn muốn tìm hiểu về vitamin nên đến trang http://www.vitamins-nutrition.org/
sutrovecuanguoisin vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 04-05-2009 Mã bài: 37433   #6
an_icy_star
Thành viên ChemVN
 
an_icy_star's Avatar

 
Tham gia ngày: Apr 2009
Posts: 1
Thanks: 0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Groans: 0
Groaned at 0 Times in 0 Posts
Rep Power: 0 an_icy_star is an unknown quantity at this point
Default

làm ơn cho mình hỏi, các bạn có biết sự phát hiện vitamin E và tính chất của nó không? mình tìm mà chưa đầy đủ lắm!có ai biết thì thông báo giùm nha! cảm ơn nhiều ha!
an_icy_star vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
  Gởi Ðề Tài Mới Trả lời


Ðang đọc: 1 (0 thành viên và 1 khách)
 

Quyền Hạn Của Bạn
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts
vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở

Múi giờ GMT. Hiện tại là 01:43 AM.