Các sản phẩm nhiên liệu từ dầu mỏ thường gặp trong đời sống
1/ Xăng chất lỏng chứa các chủ yếu các hợp chất alkan
Công thức trung bình khoảng heptan (C7H16) ; trên thực tế là các hợp chất có 4-7 carbon
d = 0.755
2/ Dầu hỏa (Kerosene) chất lỏng chứa các hidrocarbon công thức trung bình khoảng từ C10H22 đến C14H30
d= 0,77 -0,83
3/Dầu dielsel tên thực là gasoil hay gazole (viết từ gas và oil)
Công thức trung bình khoảng C21H44 (dao động 12-22 carbon)
4) Khí thiên nhiên metan
CH4 chiếm 80% - 97%
Được tồn chứa ở dạng khí dưới áp suất (VD 200 bar trong bình chứa ô tô)
Khí thiên nhiên không dùng cho mục đích dân dụng vì khó hóa lỏng và rất dễ cháy. Ở nước ta đã tập trung xây các khu công nghiệp khí điện đạm để sử dụng hết lượng khí metan phong phú này:
* Tổ hợp khí điện đạm Phú Mỹ, gồm
+ Tổ hợp các nhà máy điện chạy khí công suất phát điện 3600MW (gấp rưỡi Thủy điện Hòa Bình 1920MW). Đầu vào là nguồn khí đồng hành (đi lên cùng dầu thô) khai thác từ các mỏ Bạch Hổ, Đại hùng, Sư tử đen..) Vũng tàu.
+ Nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ công suất 741.400 tấn urea/năm và 422.598 amoniac/năm (rộng 64 ha ở Tân Thành - Bà Rịa), tổng vốn đầu tư 445 triệu USD. Nhà máy sử dụng 450 - 600 triệu m3 khí/năm khai thác từ bồn trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn Với công suất 1.350 tấn ammoniac/ngày, 2.200 tấn urea/ngày và sản lượng đáp ứng 30% - 35% nhu cầu phân bón cả nước.
* Tổ hợp khí điện đạm Cà Mau đang được xây dựng để sử dụng nguồn khí từ các mỏ khí thiên nhiên khổng lồ Lan Tây, Lan Đỏ ngoài khơi Cà mau trong vùng biển chồng lấn giữa VN với Malaysia (lưu ý các mỏ này không có dầu).
5) Khí hóa lỏng (LPG – liquified petrol gas )
Dùng cho mục đích dân dụng hay công nghiệp (ở VN các lò nung công nghiệp đã chuyển sang dùng gas từ khá lâu như các nhà máy sản xuất gạch men... do sạch, rẻ và dễ điều khiển quá trình nung).
Khí hóa lỏng là hỗn hợp của propane và butane. Ở VN thành phần này thay đổi tùy theo từng Công ty kinh doanh hay theo nhà sản xuất/nhập khẩu. VN cũng sản xuất khí hóa lỏng tại Nhà máy Dinh Cố , Bà Rịa từ nguồn khí đồng hành. Tuy nhiên sản lượng vẫn không đáp ứng được nhu cầu trong nước
Khối lượng riêng của khí hóa lỏng vào khoảng 530g/lit ở 15oC. 1 lit khí hóa lỏng tương đương với 255lit khí gas; do vậy việc hóa lỏng khí giúp giảm tối đa thể tích tồn chứa.
Áp suất tồn chứa 4-5 bar; khi cháy cho nhiệt lượng 11.000-11850kcal/kg hay 6050-6480kcal/l.
Trên thực tế người ta sản xuất propane và butane thương mại riêng biệt. Sau đó trộn theo tỷ lệ thích hợp. Việc chọn lựa tỷ lệ thích hợp dựa trên các yếu tố sau :
+ Nguồn cung có thành phần thế nào
+ Propane là chất dễ bay hơi do vậy dễ bắt cháy hơn nhất là trong điều kiện khí hậu lạnh hay vào mùa đông. Trong khi đó butane lại cho nhiệt lượng trên một đơn vị khối lượng lứon hơn propane.
VD : ở châu Âu tỷ lệ thường dùng là 50 :50 nhưng vào mùa hè có thể giảm propane, tăng butane lên thành 40 :60)
Cả metan (khí thiên nhiên) và propane/butane (khí hóa lỏng) đều là những chất không màu; không mùi. Do vậy người ta thêm phụ gia tạo mùi là các hợp chất mercaptan chứa lưu huỳnh vào để người sử dụng dễ phát hiện.. Theo 1 patent mà mình đọc được (WO/1991/017817) thì có thể dùng mixture của tetrahydrothiophene, methyl mercaptan, ethyl mercaptan, propyl mercaptan, butyl mercaptan, dimethyl sulphide, diethyl sulphide, methylethyl sulphide trong N2O hay CO2 lỏng. Khi đó sẽ cho phép hòa tan các hợp chất này vào LPG và sẽ chúng sẽ bay hơi cùng với gas khi ta sử dụng. Hàm lượng dùng có thể 0.5-2ppm (phần triệu)
Propane C3H8
Thành phần trong sản phẩm thương mại gồm propane chiếm 94,9% ; N butane &iso butane: 2,39% Eten và Etan: 2% ; Propen (C3H6): 0,89% ; Buten: 0.039%
Áp suất hóa lỏng tại 15oC: 7,5 bar (=1.5atm)
Nhiệt độ sôi của chất lỏng : -42°C
Nhiệt độ tự bốc cháy 490° C
Butane C4H10:
Thành phần trong sản phẩm thương mại gồm N-butane và iso butane chiếm 94,8% ; Propane: 4,2% ; Buten: 1%
Áp suất hóa lỏng tại 15oC: 1,5 bar (=1.5atm)
Nhiệt độ sôi của chất lỏng : -5°C
Nhiệt độ tự bốc cháy 510° C