Một chất muốn tan tốt vào nước thì ái lực của nó với nước phải lớn. Ái lực phụ thuộc vào các yếu tố kích thước, điện tích, các nhóm nguyên tử có mặt trong chất đó.
Cụ thể:
- Đối với một cation: ái lực của cation với nước càng lớn nếu các cation có điện tích càng lớn, bán kính ion càng nhỏ. Điều này có thể thấy được, các cation có điện tích lớn +3, +4, +5 trong nước sẽ không tồn tại dưới dạng cation đơn giản mà sẽ tồn tại dưới dạng catio phức tạp. và ion H+ có bán kính nhỏ nên tan vô hạn trong nước.
- Đối với anion. Anion có bán kính càng nhỏ, điện tích âm càng lớn ái lực của nó với nước càng lớn. Ngoài ra với các anion phức tạp thì có thể đánh giá qua hằng số base của anion đó. thứ tự ái lực dối với pha nước gảm dần với anion thường gặp:
phosphat > carbonat > sulfat > hydroxid > fluorur > nước > clorur > thiocianat > nitrat > iodur > perclorat
- Đối với phân tử cộng hóa trị: Các phân tử cộng hóa trị đơn giản có kích thước càng nhỏ, độ phân cực càng lớn thì ái lực của nó với nước càng lớn vd HCl và ngược lại, vd I2
Nếu các phân tử cộng hóa trị có gắn thêm các nhóm nguyên tử thì những nhóm nguyên tử phân cực sẽ làm tăng ái lực của nó với nước, vd SO3H, OH, NH2, NH, N, SH, COOH, và ngược lại, VD Alkyl, aryl, kích thước của chúng càn cồng kềnh thì những hợp chất cộng hoa trị càng ít tan trong nước.
- Ngoài ra như tieulytamhan đã nói những chất có cùng bản chất với nhau thì sẽ tan tốt vào nhau.
Trong bài bạn nói, anilin là hợp chất cộng hóa trị phân cực còn muối của nó lại là một liên hợp ion (có cùng 1 vòng benzen) thi liên hợp ion sẽ có ái lực với nước tốt hơn, nhất là khi anion của nó là Cl- có bán kính nhỏ.