Lâu lắm mới quay lại diễn đàn. Đọc lại topic mình thảo luận còn dang dở, thấy ngộ ra thêm vài chân lí.
Trước hết mình xin tiếp thu ý kiến của mấy anh em vô cơ, vì thấy anh em đều cho rằng có thể dựa vào số liệu thực nghiệm kiểu như dùng độ điện li alpha với hằng số điện li để "phán đoán" và "so sánh" tính chất điện li của hai chất.
Đến đây mình mới ngộ ra vài điều tại sao hồi học đại cương điểm mình ko bằng các bạn, chắc do cứ thật thà lao đầu vào giải thích. Trong khi các bạn cứ thuộc làu làu số liệu thực nghiệm, vô thi cứ phăng ra "do tra bảng nó thía, nên nó phải thía, hỏi chi nhức đầu
", thế là có ngay GPA khủng
Sẽ còn nhiều ví dụ khác cho chân lí này, và từ nay những câu trả lời của mình sẽ gồm hai phương án, một là của mình, và một là theo "chân lí mới ngộ"
Trích:
Nguyên văn bởi Chem's Heart
Tuy nhiên thì hóa học khác với vật lý, chỉ dựa vào lý thuyết tính toán kô thể đưa ra kết luận gì, như em cũng từng thắc mắc là làm cách nào để suy đoán độ tan của một chất bất kỳ nếu ko kể tới... dùng bảng tính tan và kinh nghiệm?
|
Hix, tìm đọc lại sách Chemistry của McMurry em nhé. Sách đó nói căn bản, đầy đủ các vấn đề này.
Không thể suy đoán chính xác độ tan hay độ điện li, cũng như bất kì thông số nào một cách chính xác, mà chỉ có thể suy đoán một cách tương đối, tương quan so sánh giữa hai chất với nhau. Tất nhiên hai đối tượng so sánh có điểm chung.
Nếu nói đến độ tan, nhưng chú longrai phán, không bao giờ tách rời dung môi. Vì bản chất sự tan gồm ba thành phần: phá vỡ solvent-solvent, solute-solute, và tạo solute-solvent. Và cũng đương nhiên, khi chẳng ai đề cập đến solvent, thì ta mặc nhiên là water.
Đọc bài post của longrai thực sự ko hiểu mấy. Sorry nhé.
Còn sang bài của Agate. Mặc dù cũng dốt vô cơ thí mịa, nhưng có cảm giác Agate hơi nhầm lẫn sự tan (solubility) và sự điện li hay chất điện li (electrolyte).
Khi đánh giá chất điện li mạnh hay yếu:
Cách 1: Tra bảng độ điện li + hằng số điện li rồi tán dóc. (Theo các bạn học chuyên vô cơ).
Cách 2: Theo mình, đặc trưng của liên kết của chất điện li mang bản chất ion, thế nên ta sẽ đánh giá tập trung vào liên kết. Như trong trường hợp HgCl2 liên kết này mang tính cộng hóa trị nhiều. Hay trong trường hợp CuCl2 liên kết cũng mang một phần bản chất cộng hóa trị. Chính vì vậy, ta đánh giá đây là những chất điện li yếu (weak electrolyte).
Còn nếu dựa vào số liệu thực nghiệm, ngoài các giá trị show "trắng trợn" như độ dẫn điện dung dịch, thì ta có thể tra khảo giá trị melting point, cũng như quan sát khả năng tan trong các dung môi hữu cơ phổ biến (ethanol hay acetone). Tất cả những dữ liệu này nhằm đánh giá bản chất liên kết (cộng hóa trị hay ion, phần nào ưu thế), từ đó sẽ có kết luận về khả năng điện li --> đánh giá, so sánh chất điện li mạnh hay yếu.
Vài ý kiến đóng góp.